Thứ Tư, ngày 13 tháng 3 năm 2024 nhằm ngày 3 tháng Adar II năm 5784 theo lịch Do Thái. Cũng theo truyền thống Do Thái thì hôm nay là ngày ngôi đền thứ 2 hoàn thành (349 TCN). Lễ cung hiến Đền Thánh thứ hai ( Beit HaMikdash ) trên địa điểm của Đền thờ thứ nhất ở Jerusalem, được cử hành vào ngày 3 tháng Adar năm 3412 kể từ khi được tạo dựng (349 TCN), sau bốn năm làm việc.
Ngôi đền đầu tiên được vua Solomon xây dựng vào năm 833 trước Công nguyên và bị người Babylon phá hủy vào năm 423 trước Công nguyên. Khi đó, nhà tiên tri Giê-rê-mi đã tiên tri: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Sau bảy mươi năm đối với Ba-by-lôn, ta sẽ đến thăm các ngươi… và sẽ đưa các ngươi trở về nơi này”. Năm 371, hoàng đế Ba Tư Cyrus cho phép người Do Thái quay trở lại Giu-đa và xây dựng lại Đền thờ, nhưng việc xây dựng bị dừng lại vào năm sau khi người Samari thuyết phục Cyrus rút lại giấy phép. Achashverosh II (danh tiếng của Purim) đã giữ nguyên lệnh cấm. Chỉ đến năm 353 - đúng 70 năm sau khi bị phá hủy - việc xây dựng Đền thờ mới được tiếp tục dưới thời Darius II.
Jerusalem được dùng làm điểm tiếp xúc giữa trời và đất. Tòa nhà này đóng vai trò trung tâm trong cuộc sống của người Do thái với tư cách là người Do Thái đến nỗi gần 2/3 mitzvot ( các điều răn của Kinh Torah ) phụ thuộc vào sự tồn tại của nó.
Các nhà hiền triết Do thái tin rằng: "Vị trí của Bàn thờ [trong Đền Thánh ] được xác định rất chính xác... Theo truyền thống phổ biến, Đền Thánh nơi David và Solomon xây dựng Bàn thờ trên sân đập lúa của Arona, chính là nơi nơi Áp-ra -ham xây một bàn thờ và trói Y- sác trên đó; đây là nơi Nô-ê xây [một bàn thờ] khi ông ra khỏi Tàu; đây là nơi Cain và Abel mang lễ vật của họ; đây là nơi Người đàn ông đầu tiên Adam dâng một korban khi ông đã được tạo ra - và chính từ [trái đất] nơi này mà anh ấy đã được tạo ra…”
Người Do Thái đến đây, ba lần một năm - vào Lễ Vượt Qua , Shavuot và Sukkot - mang theo lễ vật dâng lên Đức Chúa Trời, và mang theo chính mình để "nhìn thấy và được nhìn thấy khuôn mặt của Chúa." Ở đây, Sự Hiện diện của Thần thánh đã được biểu hiện - đây là nguyên mẫu của "nơi cư ngụ của Chúa trong thế giới vật chất" vốn là mục đích của sự sáng tạo.
Theo truyền thống Do Thái thì ngày 1 tháng Iyar chính là ngày mà Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ thượng phẩm Giê - sua bắt đầu xây dựng Đền Thờ Thứ Hai sau năm mươi ba năm Đền Thánh thứ Nhất bị phá hủy vào ngày 9 tháng Av.
Sự thờ phượng đã được bắt đầu từ vài tháng trước đó trên chính khu đất trống, nơi từng đặt Đền Thánh Thứ Nhất , tuy nhiên chỉ sau khi việc xây dựng bắt đầu vào ngày 1 tháng Iyar thì người Lê-vi mới bắt đầu đi kèm với nghi lễ bằng bài hát và âm nhạc.
Bởi sự thúc dục của tiên tri A-ghê và tiên tri Xa-cha-ri mà “Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai của Giô-xa-đác, bèn chỗi dậy, khởi cất đền Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, có các tiên tri của Đức Chúa Trời giúp đỡ.” ( Ê-xơ-ra 5:1-2 ). Theo những câu cuối cùng của sách II Sử ký , sách Ê-xơ-ra và sách Nê-hê-mi thì những người Do Thái lưu vong được trở về Jerusalem theo một sắc lệnh của Vua Si-ru ( Ê-sơ-ra 1:4 , II Sử ký 36 : 22-23 ). Ngôi đền thứ hai được xây dựng ngay tại vị trí ban đầu của bàn thờ trong Đền thờ thời vua Sa-lô-môn.
Việc xây dựng sau đó đã bị dừng lại sau khi những người Sa-ma-ri thù địch cung cấp thông tin vu khống sai cho Si-ru về ý định của người Do Thái ( Ê-xơ-ra 4 ). Việc xây dựng được tiếp tục nhiều năm sau đó, và hoàn thành 21 năm sau dưới triều đại của Vua Đa-ri-út ( Ê-xơ-ra 5 ) vào ngày ngày 3 tháng Adar II.
Ngôi đền thứ hai ( tiếng Do Thái : בית־המקדש השני ), ban đầu là một công trình kiến trúc khá khiêm tốn . Trong suốt thời kỳ Ba-tư và Hy-lạp đền thờ thường được những người cai trị xứ Giu-đa tôn trọng nhưng đến thời của Antiochus IV Epiphanes, ngôi đền đã bị cướp phá vào năm 169 BCE và làm ô uế Đền Thờ vào năm 167 BCE bằng cách ra lệnh rằng phải hiến tế cho Zeus ở đây. Hành động xúc phạm này đã làm cho những người Do Thái nổi dậy bởi Judas Maccabeus. Judas Maccabeus dọn dẹp và xây dựng lại Đền thờ. Sự kiện này ngày nay được kỷ niệm trong lễ hội Hanukkah hàng năm .
Trong cuộc chinh phục của người La Mã, Pompey (63 BCE ) đã vào Holy of Holies ( Nơi chí thánh ) nhưng vẫn giữ nguyên lại ngôi đền. Vào năm 54 BCE , Crassus đã cướp ngân khố của Đền thờ, dầu vậy dưới thời trị vì của vua Hê-rốt , ngôi đền đã được tân trang lại hoàn toàn. Vì vậy Đền thờ thứ hai còn được gọi là Đền thờ thời Vua Hê-rốt cũng chính là ngôi đền gắn với một số sự kiện trong cuộc đời của Chúa Jesus. Ngôi đền thứ hai tồn tại khoảng 585 năm trước khi bị phá hủy vào năm 70 CN bởi Đế chế La Mã để trả đũa cho một cuộc nổi dậy đang diễn ra của người Do Thái , đúng như lời Chúa Jesus đã báo trước trong Ma-thi-ơ 24.
Đền thờ thứ hai thiếu mất một số vật thánh vốn nằm trong nơi Chí Thánh của Đền Thờ Thứ nhất bị mất sau khi Đền Thờ thứ nhất bị phá hủy như : Hòm Giao Ước ( Chứa 2 bản luật pháp, bình đựng bánh ma na và gậy trổ hoa của A-rôn ), Urim và Thummin ( Hai chữ nầy nghĩa là “quang minh” và “hoàn thiện,” chỉ về một vật mà chất vật đó ta không hiểu là chi, để cho thầy tế-lễ thượng phẩm dùng hỏi ý Đức chúa Trời trong lúc trang nghiêm , Xuất 28:30 ; Ê-xơ-ra 2:63 ; Nê-hê-mi 7: 65 ) , dầu thánh và ngọn lửa thiêng.
Tại Kodesh Hakodashim ( Nơi chí thánh ) của Đền Thờ Thứ Hai vốn ngăn cách bởi bức màn và bị xé đôi ( Mác 15:38 ) khi Chúa Jesus chịu chết trên thập giá thì có những vật sau : Menorah ( đèn 7 ngọn ), bàn bánh trần thiết, bàn xông hương. Theo truyền thống Do Thái ( Mishnah ) thì vị trí của Hòm Giao Ước chính là nơi đặt “tảng đá nền tảng” mà ngày nay đang nằm bên trong nhà thờ mái vòm của Hồi Giáo. Đây chính là nơi mà thầy tế lễ thượng phẩm thời kỳ của Ngôi Đền thứ hai đã đặt lư hương của mình trên đó và Yom Kippur vào kỳ Đại Lễ Chuộc Tội.
Ngôi đền thứ hai cũng có nhiều những khí dụng ban đầu bằng vàng mà người Ba-bi-lôn đã lấy đi và được vua Si-ru trả lại ( Ê-xơ-ra 1: 7:11 ) Tuy nhiên vì không có Hòm Giao Ước nên Talmud cho biết ngôi đền không có “shekhinah” ( Sự hiện diện của thần thánh của Chúa ) và Ruach Hakodesh ( Thánh linh ) như trong ngôi đền đầu tiên.
Ngôi đền thứ hai này cũng đóng một vai trò trung tâm trong lịch sử ban đầu của Cơ đốc giáo. Gia đình của Chúa Jesus đã đến đền thờ sau khi Chúa sinh ra để kỷ niệm sự cứu chuộc của đứa con đầu lòng ( Xuất 13:13 , Dân số ký 18:15-16 ) và để mẹ Ngài có thể dâng của lễ mà kinh Torah yêu cầu sau khi sinh con ( Lê-vi-ký 12 ). Hầu hết những người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trên đất Israel đều tuân theo những nghi thức này.
Đền thờ thời Hê-rốt cũng là nơi Chúa Jesus đã giảng dạy lúc mới 12 tuổi trong đền thờ vào Lễ trưởng thành của Chúa trong một chuyến hành hương Lễ Vượt Qua của gia đình ( Lu-ca 2: 41-48 ). Vào Lễ Vượt Qua, khi Chúa vào Đền Thờ Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ ( Mác 11: 11-18, Giăng 2:13-16 ; Giăng 2:13 ). Và Chúa cũng đã nói về sự phá hủy của Đền Thờ trongMác 13:1-2 hay Giăng 2 . Ngôi đền và những vật tế lễ của nó đặc biệt nổi bật như những biểu tượng trong thư Hê-bơ-rơ. Nhiều nghi lễ của người Do Thái và Cơ đốc giáo sau này dựa trên các nghi lễ trong đền thờ.
Mục Vụ Do Thái Lời Sự Sống Việt Nam.
Comentarios