Bài viết được trích trong tác phẩm Vicars of Christ – The Dark Side of The Papacy của cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa do Crown Book Editions xuất bản năm 1988. Đây là một tác phẩm bán chạy nhất trong nhiều năm của một tác giả được báo chí gọi là siêu điệp viên quốc tế về thâm cung bí sử của Vatican.
Tác phẩm Vicars of Christ chú trọng tới việc vạch trần tội ác diệt chủng Do Thái của Giáo Hội Công Giáo trong suốt 16 thế kỷ qua. Nguyên nhân dẫn đến tội ác diệt chủng này và hành vi tội ác của các kẻ tự xưng là “Đại Diện của Chúa Kitô” đã diễn ra như thế nào.
Chúng ta đã biết, vào đầu thế kỷ 4, đa số dân chúng trong Đế Quốc La Mã đều theo đạo Kitô với nhiều giáo phái khác nhau. Tuy các giáo phái có khác nhau về giáo lý nhưng đều đồng nhất ở điểm cùng tôn thờ Jesus là Chúa Cứu Thế .Constantine có sáng kiến thống nhất các giáo phái này thành một đạo Kitô thống nhất được gọi là “Công Giáo” để làm lợi khí xâm lược toàn cầu, vì Công Giáo có nghĩa là “toàn cầu”. Sau khi thống nhất Kitô Giáo hoàn toàn vài năm 340, Constantine ra lệnh hủy diệt hết mọi dấu vết của các giáo phái Kitô khác, bao gồm các cuốn kinh thánh Tân Ước không phù hợp với đạo Công Giáo, xóa bỏ mọi dấu vết thật của Chúa Jesus tại Jerusalem, thiêu hủy mọi sách triết học khoa học của Hy Lạp. Muốn thống nhất đạo Kitô, đế quốc La Mã không thể làm điều gì khác hơn là phải tôn Jesus lên làm Thiên Chúa Toàn Năng. Nhưng vì không thể tôn thờ một người do chính mình đã giết hại nên Đế quốc La Mã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus cho Do Thái là nước thuộc địa đã dám chống lại mẫu quốc. Một công hai việc, một mặt vừa đạt mục tiêu thống nhất đạo Kitô, mặt khác vừa trả thù Do Thái một cách ghê gớm chưa từng thấy. Đó là nguyên nhân đã đưa đến chủ trương diệt chủng Do Thái của Đế Quốc La Mã mà kẻ thừa kế là Vatican.
Về mặt giáo lý, La Mã bịa chuyện Pilate rửa tay để phủi trách nhiệm kết tội tử hình Jesus. Các kinh sách cầu nguyện luôn luôn nói là dân Do Thái đòi phải giết Chúa. La Mã đã thành công trong việc biến máu cứu chuộc của Chúa Jesus thành máu hận thù dân tộc Do Thái đến muôn đời. Chúa Jesus dạy mọi người phải thương yêu và tha thứ cho nhau, nhưng La Mã dạy giáo dân không thể tha thứ cho dân tộc Do Thái về tội đã giết Chúa. Sự thật lịch sử là dân Do Thái dưới sự thống trị của La Mã không có quyền xử tử bất cứ ai. Xưa kia, lúc Do Thái còn độc lập tự trị, luật pháp của họ chỉ dự liệu phương cách xử tử tội nhân bằng cách ném đá chứ không hề xử tử tội nhân bằng thập tự giá bao giờ. Mọi việc xét xử tội nhân dưới thời lệ thuộc hoàn toàn do Đế Quốc La Mã quyết định. Phương cách xử tử tội nhân bằng thập tự giá là phương cách đặc biệt của La Mã và Hy Lạp dùng để khủng bố trấn áp nô lệ và dân thuộc địa. Họ không áp dụng lối xử tử nhục nhã và rất đau đớn này đối với công dân của họ. La Mã đã thành công nhồi sọ giáo dân phân biệt hai thứ máu Do Thái. Máu cứu chuộc của Chúa là máu của Abraham, David, Solomon và các thánh. Máu của dân Do Thái là máu tội lỗi của Herod, Caipha, Judas Escariot.
Tội của tổ tiên Do Thái là tội trực tiếp giết Chúa, tội của dân tộc Do Thái từ đó đến nay là tội phủ nhận chúa Jesus là Thiên Chúa Toàn Năng, đấng tạo thành vạn vật và tạo thành cả tổ tiên đã sinh ra mình!
Về mặt tuyên truyền, đế quốc La Mã phao tin vu cáo người Do Thái hay bỏ thuốc độc để giết hại người Kitô Giáo và hay bắt cóc con nít cắt tiết để uống máu. Do đó, từ giữa thế kỷ 4 trở đi, bất cứ nơi nào có người Kitô Giáo là ở đó có sự hận thù Do Thái cùng cực.
Hình ảnh 14 “đàng thánh giá” trong các nhà thờ đều mô tả quân lính La Mã đánh đập và giết Chúa, nhưng mọi giáo dân đều không nghĩ đó là lính La Mã mà chỉ gọi là “quân dữ” hoặc “quân Giu-đê”. Họ căm thù Do Thái và quên khuấy một điều là cả Chúa, Đức Mẹ, các thánh tổ tông, các thánh tông đồ tất cả đều là Do Thái!
Suốt thế kỷ 12 và 13, tại khắp Âu Châu, người Do Thái bị cấm không được tiếp xúc với người Kitô Giáo. Họ bị tước đoạt hết nhà cửa và tài sản. Ban đêm, tất cả mọi người Do Thái không phân biệt già trẻ, đàn ông, đàn bà, con nít, đều bị lùa vào các khu tập trung có cổng khóa chặt, tiếng Ý gọi là GHETTOS – Đây là một phát minh độc đáo của giáo hội Công Giáo La Mã. Các sử gia đã phải than rằng: Ghettos là một chế độ apartheid tàn bạo chưa từng thấy.
Mỗi lần La Mã tổ chức các cuộc thập tự chinh đến các nước xa xôi, việc đầu tiên của thập tự quân là đi lùng bắt những người Do Thái cư trú tại địa phương đó đem đi chém giết tập thể.
Tại các quốc gia có vua chúa Công Giáo cai trị, mọi người Do Thái đều bị cấm xuất đầu lộ diện vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Bất cứ người Do Thái nào bị bắt gặp trên đường phố đều bị xử tử tại chỗ!
Vào thế kỷ 16, giáo dân tôn sùng giáo hoàng và tin rằng giáo hoàng không bao giờ sai lầm. Giáo hoàng ra lệnh gì, giáo dân thi hành triệt để. Do vậy, tai họa đến với người Do Thái càng trầm trọng hơn.
Năm 1581, Giáo Hoàng Gregory XIII ban tông huấn: “Tội ác của Do Thái trong việc chối Chúa và đóng đinh Chúa Jesus chỉ càng ngày càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó Do Thái phải bị nô lệ muôn đời”.
Cuối thế kỷ 18 tại Rome, 2030 người Do Thái bị buộc phải “trở lại” đạo Công Giáo. Khi họ đi nhà thờ nếu lỡ ngủ gật, có thể bị các người cai quản nhà thờ đập chết hay đánh trọng thương. Nhiều người Do Thái muốn tránh cho con cái của họ sau này khỏi bị hành hạ, đã đem con đến nhà thờ cho cha cố rửa tội. Sau đó họ chẳng bao giờ được gặp lại con của họ nữa. Nhà thờ đem chúng đi biệt tích vì sợ sau này chúng lớn lên sẽ trở lại đạo Do Thái!
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã mở đầu cho phong trào bài trừ mê tín tại Âu Châu. Các nhà đại tư tưởng có khuynh hướng nhân đạo và cấp tiến như Voltaire , J.J. Rousseau Montesquieu, Diderot và ở Anh có Thomas Paine, đã cố gắng soi rọi ánh sáng để xóa tan bóng tối đã bao phủ Âu Châu nhiều thế kỷ. Nhưng ánh sáng đó chẳng bao giờ soi tới Vatican! Các giáo hoàng là các bạo Chúa vô địch về tính thủ cựu. Tất cả các giáo hoàng vẫn tiếp tục giữ nguyên thành kiến căm thù Do Thái và vẫn tiếp tục duy trì chế độ Ghettos tại Ý, trong khi hầu hết các nước Âu Châu đã bãi bỏ chế độ này đối với người Do Thái.
Sau khi thuốc chủng ngừa các bệnh được Pasteur phát minh, mọi người trên thế giới đều được quyền hưởng lợi ích của sự chích ngừa, Giáo Hoàng Leo XII lại ra lệnh cấm chích ngừa cho người Do Thái. Sự hành hạ người Do Thái tại Ý càng trở nên tàn bạo khiến cho vua Áo Franz Joseph và vua Pháp Napoleon III phải gửi văn thư cảnh cáo giáo hoàng: “Ngài đang trở nên thù địch với công tâm của toàn thế giới”. Nhà quí tộc Anh đích thân đến Vatican khuyên Giáo Hoàng Pius IX phải bớt cứng rắn với Do Thái. Sau khi thấy các lãnh đạo thế giới đã khuyên bảo Tòa Thánh phải thay đổi chính sách đối với Do Thái mà không có hiệu quả, vua Ý không thể kiên nhẫn được, đã dùng hỏa lực quân sự chiếm Vatican ngày 2/10/1870. Vua Ý đã dùng thế quyền tước bỏ thần quyền của giáo hoàng, hủy bỏ các sắc luật đối xử bất công với Do Thái của Tòa Thánh từ xưa đến nay. Nhà vua ban hành đạo luật của hoàng gia Ý (Royal decree) công bố người Do Thái được hưởng toàn quyền tự do bình đẳng như các người công dân Ý khác. Chính sách ngược đãi Do Thái tại Ý trong 15 thế kỷ của Vatican bị hoàn toàn chấm dứt. Thành lũy Ghettos cuối cùng ở Âu Châu đã bị bỏ bằng sức mạnh quân sự của thế quyền nước Ý!
Mọi người trên thế giới tưởng rằng người Do Thái đã thoát nạn diệt chủng, nhưng giáo hội Công Giáo vẫn chưa chịu thua. Tội ác của họ tiếp tục dưới hình thức khác.
Năm 1926, Giáo Hoàng Pius XI (1922-1939) ra lệnh cho Đảng Công Giáo (The Catholic Party) giải tán để nhập vào đảng của Mussolini. Năm 1929, đảng của Mussolini ký hiệp ước với Vatican tại Lateran chia xẻ quyền hành tại Ý, tiêu diệt các phong trào tiến bộ và tiếp tục chính sách chống Do Thái.
Trong khi đó, Hồng Y Pacelli là nhà ngoại giao của Vatican tại Đức đã ra sức vận động Đảng Công Giáo Đức và các lãnh tụ chính trị Công Giáo Đức ủng hộ cho Hitler để đưa y lên cầm quyền. Hồng Y Pacelli về sau trở thành Giáo Hoàng Pius XII [Ông giáo hoàng này đã vận động chính phủ Mỹ dội từ 1-6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt năm 1954 để giải vây cho quân đội Pháp nhằm kèo dài sự đô hộ của thực dân trên đất nước Việt Nam.] khét tiếng chống Cộng và ủng hộ Pháp.
Từ giữa thập niên 1930, trước cửa nhà của những người Do Thái thường bị những kẻ bí mật vẽ dấu hiệu ngôi sao David (sao 6 cạnh) bằng sơn. Trên cây thánh giá ở nhà thờ, chữ JNRJ được thay thế bằng chữ Đức, có nghĩa là “Jews are not welcome here”. Năm 1936, giáo hội Công Giáo Đức cử giám mục Osmabruch đến gặp Hitler. Hai người đàm đạo với nhau trong hơn một giờ. Hitler đã xác quyết với Giám Mục Osmabruch là có cùng một quan điểm với giáo hội trong mục tiêu diệt Do Thái. Hitler nói: “Chẳng phải là giáo hội đã coi bọn Do Thái là ký sinh trùng và nhốt chúng vào Ghettos đó sao? Tôi chỉ đang làm những gì giáo hội đã làm trong 15 thế kỷ qua, và làm cho hữu hiệu hơn… với tư cách là một người Công Giáo, tôi ngưỡng mộ và muốn chấn hưng đức tin Kitô” .
Yorumlar