Tiếng Hê-bơ-rơ được gọi là Lashon Hakodesh (Ngôn ngữ Thánh), tiếng Hê-bơ-rơ được gọi như vậy vì tiếng Do Thái không có các từ mô tả các hành vi dâm dục và các bộ phận riêng tư trên cơ thể. Ngoài ra Tiếng Hê-bơ-rơ được gọi là ngôn ngữ thánh là bởi vì đây là ngôn ngữ mà Đức Chúa Trời đã dùng để sáng tạo nên thế giới, viết Kinh Thánh và sử dụng để truyền đạt ý muốn của Ngài thông qua các nhà tiên tri.
Ngược lại với Lashon Hakodesh thì lời nói độc ác trong tiếng Do Thái được gọi là Lashon Hara ( tiếng Do Thái לשון הרע ; "lưỡi ác") nghĩa đen là “lời nói độc ác”, từ này đề cập đến nhiều loại ngôn ngữ bị luật Do Thái cấm. Nói một cách thông dụng thì thuật ngữ này được dùng để chỉ tất cả các cách nói bị cấm, dù đúng hay sai, và ngay cả đôi khi từ này được dùng cho những “tin đồn ác ý”. Nhưng về mặt kỹ thuật, lashon hara đề cập đến lời nói thật gây tổn hại cho đối tượng và đề cập đến những lời nói về một người hoặc nhiều người tiêu cực hoặc có hại cho họ, mặc dù điều đó là sự thật. Đó là lời nói gây tổn hại cho (những) người được nói đến về mặt cảm xúc hoặc tài chính, hoặc hạ thấp họ trong đánh giá của người khác. Lashon hara được coi là một tội lỗi rất nghiêm trọng trong truyền thống Do Thái .
Lời nói sai sự thật hay nói dối có ác ý trong tiếng Hê-bơ-rơ được gọi là “hotzaat diba” hay là “motzi shem ra” từ này có nghĩa đen là “nói xấu,” hay phổ biến hơn là vu khống hoặc phỉ báng. Hotzaat shem ra là một tội lỗi thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả lashon hara .Hành động buôn chuyện được gọi là rechilut , và cũng bị halakha (luật Do Thái) cấm.
Mặc dù về mặt kỹ thuật, lashon hara chỉ đề cập đến lời nói thật có hại chứ không phải những lời nói dối có ác ý (motzi shem ra) hoặc tin đồn vô hại (rechilut), nhưng trên thực tế, nó thường bao gồm cả ba.
Thuật ngữ lashon hara không xuất hiện trong Kinh thánh nhưng có từ gần đúng nhất được ghi lại trong Thi thiên 34:12-13: “Ai là người ưa thích sự sống,Và mến ngày lâu dài để hưởng phước lành? Khá giữ lưỡi mình khỏi lời ác, [ lashon'cha me'rah ], Và môi mình khỏi nói sự dối gạt.”
(Quảng cáo trên xe buýt có nội dung "Lashon hara không nói chuyện với tôi!" bằng tiếng Do Thái)
Luật của lashon hara thường được cho là bắt nguồn từ hai nguồn chính trong Torah. Một là một câu trong Lê-vi Ký 19:16 cấm nói xấu “Chớ buông lời phao vu trong dân sự mình, chớ lập mưu kế nghịch sự sống của kẻ lân cận mình: Ta là Đức Giê-hô-va.” và trong Xuất Ai Cập 23:1 "Ngươi chớ đồn huyễn; chớ hùa cùng kẻ hung ác đặng làm chứng dối.” Câu Kinh Thánh trong sách Lê-vi-ký đề cập đến chuyện kể lại, hay chuyện ngồi lê đôi mách đơn giản — chỉ nhắc lại thông tin về người khác, ngay cả khi đó là sự thật và ngay cả khi nó không tiêu cực. Câu trong Xuất-ê-díp-tô-ký nói về những tin đồn tiêu cực và lời chứng dối. Việc hai điều cấm này được chứa trong cùng một câu được hiểu là biểu thị mức độ nghiêm trọng mà truyền thống Do Thái coi là lashon hara.
Một số nhà lập luật cũng cho rằng lashon hara vi phạm điều răn của Torah là “Hãy nhớ lại điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi làm cho Mi-ri-am dọc đường, khi các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 24:9). Điều răn này được hiểu là đề cập đến việc Chúa đánh Miriam mắc bệnh phong cùi vì đã nói xấu anh trai của cô là Moses. Nói xấu người khác cũng có thể vi phạm điều răn này.
Truyền thống Do Thái coi nhiều loại lời nói có hại là một tội lỗi nghiêm trọng, ngay cả khi đó là sự thật. Các giáo sĩ Do Thái cũng cấm một thứ mà họ gọi là avak lashon hara - nghĩa đen là “lời nói đả kích”.
Luật Do Thái cũng coi cả người nói và người nghe lashon hara đều phải chịu trách nhiệm. Có nhiều điều răn khác mà người ta có thể phạm tội khi nói lashon hara. Chúng bao gồm lệnh cấm được gọi là lifnei iver— theo nghĩa đen, đặt chướng ngại vật vấp ngã trước mặt người mù, thường được hiểu là khiến người khác phạm tội. Ai đó nói lashon hara và khiến người nghe vi phạm cũng có thể phạm tội.
Mục vụ Do Thái
Comments